DJC

Đã đánh giá tài liệu

Cảm ơn bạn đã phản hồi

Việt sử thông lãm - Tập 1

Tài liệu miễn phí

Đọc sử, cũng nên biết qua lịch trình diễn tiến việc biên soạn sử của tiền nhân. 

Bắt đầu là hai bộ: 

  1. Đại Việt sử ký (Lê Văn Hưu) soạn xong năm Thiệu Long thứ 15 (1272) đời Trần Nhân Tôn. Bộ này đã bị người Minh tước đoạt trong hồi Minh thuộc. 
  2. Đại Việt sử ký tục biên do Phan Phù Tiên phụng biên và dâng lên Vua Lê Nhân Tôn vào niên hiệu Diên Ninh 4 (1457). Vì loạn Nghi Dân, bộ sử ấy cũng bị thất lạc. 

Thay vào hai bộ sử kể trên, sử gia Ngô Sĩ Liên hoàn tất bộ Đại Việt sử ký toàn thư vào năm Hồng Đức thứ 10 đời Lê Thánh Tôn (Kỷ Hợi 1479). Bộ sử đó gồm 15 cuộn chép từ hồi lập quốc đến khi Vua Lê Thái Tổ lên ngôi. 

Tiếp đó, các sử thần nhà Lê chép nối đoạn sử từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng. Phần này mang tên là Đại Việt sử ký bản kỷ thực lục

Năm Cảnh Trị thứ 3 (1665) đời Lê Huyền Tôn, Phạm Công Trứ lại việt nối phần bản kỷ ấy từ Lê Trang Tôn đến Lê Thần Tôn và gọi là Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên

Phần tục biên này còn được hai lần chép nối nữa. Một lần từ Lê Gia Tôn đến Lê Hi Tôn do hai sử gia Lê Hi và Nguyễn Quý Đức đảm trách, và lần sau do Nguyễn Hoàn, Lê Quý Đôn, Vũ Miên biên tập, chép từ Lê Dụ Tôn đến Lê Hiến Tôn.

Ngoài ra, có một số tạp sử cũng thuộc loại tục biên chép từ hồi Mười năm bình định cho đến khi Chiêu Thống lưu vong. Những cuốn sử này đều còn là cảo bản, nhưng không cuốn nào chép đầy đủ và đều không ghi tên tác giả. 

Về đời Nguyễn, bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, gần như san và nhuận hai bộ trước mà viết thành bộ khác. Chỉ có bộ Đại Nam thực lục là sáng tác mới của Quốc tử quán hồi đó, chép công việc của chúa Nguyễn, rồi tiếp đến các triều đại từ Gia Long đến Đồng Khánh mà thôi. 

Xét thế, chính sử của ta chép bằng chữ Hán có thể nói là gồm ba bộ: Đại Việt toàn thư, Việt sử tục biên và Đại Nam thực lục. Gần đây, được soạn bằng Việt văn có An Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Việt sử toàn thư và Việt sử tân biên của Phạm Văn Sơn với một số tạp sử được phiên dịch. 

Từ khi có những quyển sử bằng Việt ngữ đó, việc học sử đã có hào hứng hơn và người học sử càng thấy thấm thía tấm lòng yêu nước yêu nòi. 

Nước Việt Nam ta, ngay trong hiện tại, vẫn còn là một nước chậm tiến. Về mọi lĩnh vực khoa học, kỹ nghệ, doanh thương, kinh tế, chính trị…, ta còn thua kém người xa. Song ta có thể tự hào, ngẩng mặt nhìn đời, do sự chứa đựng trong những quyển sử của chúng ta đó. Năm nghìn năm văn hiến với biết bao trang sử quang vinh.

Sử viết bằng văn vần, có thể rất ích lợi cho những ai ít được rảnh rỗi để học tập, là cuốn Đại Nam quốc sử diễn ca, mãi đến hồi này mới có một nhà xuất bản ấn hành. Cuốn ấy nguyên của một tác giả người Bắc Ninh, khuyết tên, biên soạn về cuối đời Lê, rồi Lê Ngô Cát sửa lại và rút ngắn. 

Lê tiên sinh muốn cuốn sử ca đó rút ngắn, nên đã bớt đi tới 3 phần từ nguyên bản. Thật là đáng tiếc về sự cắt xén đó, vì một cuốn sử bằng văn vần cũng phải đặt ngang hàng quan trọng như cuốn sử bằng văn xuôi. Nếu vừa là cuốn sử đầy đủ vừa lại có giá trị về văn chương thì người đọc chỉ thấy hứng thú thêm, chứ đâu có chán. 

Kể Kiều lẩy, người ta nhớ đoạn nào, ngâm đoạn ấy. Rỗi rãi thì nghêu ngao vài bốn chục câu, vui thì ngâm theo điệu vui, buồn thì lựa đoạn buồn mà kể. Còn bận rộn thì vừa làm vừa ngâm, chỉ mươi hai câu khoái ý là đủ. Đem sử thế cho Kiều, cũng kể sử lẩy, bắt đầu thì ngâm ít ngâm nhiều, đoạn này dằng đoạn khác, có sao đâu? Nhưng lâu rồi phải thuộc, như có nhiều người thuộc trọn quyển Kiều, đố đâu biết đấy. Như vậy chẳng giúp ích cho việc học sử sao?

Cũng vì nặng lòng với đất nước, muốn khuyến khích việc đọc sử, tôi viết ra cuốn Việt sử thông lãm (tên đầy đủ của nó là Việt sử siêm lãm nhất thông: sử Việt dò xét xem một mạch từ đầu đến cuối), tạm in phần đầu khoảng trên một ngàn câu. 

Mong rằng người thích ca từ, thì quyển sử này là một thiên ca từ, người thích kể Kiều lẩy thì lẩy sử cũng như lẩy Kiều, mà sử còn chứa đựng nhiều tình tiết hơn trong Kiều nữa. Mong rằng, rồi đây ở đâu cũng vang lên tiếng ca lẩy sử, với hùng hồn thay cho ủy mị, sẽ đưa đến vận hội mới cho giống nòi. 
 

Sài Gòn, ngày 7 tháng 8 năm 1973 

Đãi Sinh Vũ Huy Chân

Mục lục

Lời nói đầu - Trang V

Tiến trình lịch sử Việt Nam từ thời mở cõi đến chiến thắng của Ngô Quyền ở trận Bạch Đằng Giang - Trang 1

Phần giải thích - Trang 61

Bản đính chánh - Trang 145
 

Lời nói đầu

119 Lượt xem
other
Tặng đá Báo cáo
Chia sẻ

Ý kiến (0)

Tài liệu liên quan

  • 13
    Phương pháp sử học

    Kim cương

    Miễn phí

    Rating

    0.0/5

    Lượt xem

    5.8K
  • 5
    Hoàng Việt xuân thu

    Kim cương

    Miễn phí

    Rating

    0.0/5

    Lượt xem

    634
  • 27
    Việt sử tân biên: Trần - Lê thời đại

    Kim cương

    Miễn phí

    Rating

    0.0/5

    Lượt xem

    537
  • 28
    Việt sử tân biên: Việt Nam Kháng pháp sử (Tập trung)

    Kim cương

    Miễn phí

    Rating

    0.0/5

    Lượt xem

    518
  • 31
    Việt sử tân biên: Việt Nam kháng Pháp sử (Tập thượng)

    Kim cương

    Miễn phí

    Rating

    0.0/5

    Lượt xem

    498
  • 21
    Việt sử tân biên: Từ Tây Sơn mạt điệp đến Nguyễn sơ

    Kim cương

    Miễn phí

    Rating

    0.0/5

    Lượt xem

    458
  • 20
    Việt sử tân biên: Nam Bắc phân tranh hay là Loạn phong kiến Việt Nam

    Kim cương

    Miễn phí

    Rating

    0.0/5

    Lượt xem

    391
  • 23
    Việt sử tân biên: Thượng và Trung cổ thời đại

    Kim cương

    Miễn phí

    Rating

    0.0/5

    Lượt xem

    370
  • 27
    Việt Nam Pháp thuộc sử

    Kim cương

    Miễn phí

    Rating

    0.0/5

    Lượt xem

    176
  • 12
    Việt sử tân biên: Việt Nam kháng Pháp sử (Tập hạ - Phần 1)

    Kim cương

    Miễn phí

    Rating

    0.0/5

    Lượt xem

    154