DJC

Đã đánh giá tài liệu

Cảm ơn bạn đã phản hồi

Giới thiệu Phạm Tộc Việt Nam

Tài liệu miễn phí

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ DÒNG HỌ PHẠM VIỆT NAM

Trên lãnh thổ Việt Nam có rất nhiều dòng họ đang cùng nhau chung sống, cùng nhau tạo nên một cộng đồng đoàn kết, góp sức xây dựng và phát triển đất nước. Theo số liệu điều tra dân số, họ Phạm là dòng họ lớn thứ tư ở Việt Nam, trải đều từ Bắc chí Nam. Trong số 54 dân tộc anh em của Việt Nam, có đến sáu dân tộc có người mang họ Phạm. Đó là các dân tộc Kinh, Mường, Tày, Hoa, Khmer và Thái.  

Họ Phạm là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á và rất phổ biến ở Việt Nam, có lịch sử phát triển lâu đời. Trải qua hàng ngàn năm phát triển cùng với lịch sử dân tộc, họ Phạm ngày càng khẳng định được vị thế của dòng họ trong cộng đồng các dòng họ Việt Nam. Cội nguồn của dòng họ Phạm phần lớn là từ cộng đồng dân tộc Việt trong tộc Bách Việt của nước Văn Lang - Âu Lạc xưa, một bộ phận nhỏ khác là từ các luồng di dân từ các tỉnh miền Nam Trung Quốc vào nước ta và được đồng hóa với dân bản địa, bên cạnh đó là do từ các dòng họ khác đổi sang.

Trong tiếng Phạn cổ, từ “Phạm” có nghĩa là “Thủ lĩnh”. Tuy nhiên, lịch sử hơn 4.000 năm của nước Việt lại không ghi nhận người họ Phạm nào lên ngôi thiên tử. Mặc dù chưa một lần có người làm vua, nhưng họ Phạm vẫn được mệnh danh là “Dòng họ lương đống của xã tắc”, bởi trong lịch sử, ở bất cứ triều đại nào, thời kỳ nào cũng đều có những danh nhân họ Phạm có công với đất nước, mang trong mình tinh thần yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, tên tuổi được lưu danh sử sách.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của Việt Nam, “Tiếng bom Sa Diện” của nhà cách mạng Phạm Hồng Thái đã gây chấn động dư luận thế giới, thôi thúc tinh thần yêu nước của cả nhân dân cả nước.

Thời xưa có các danh tướng họ Phạm tên tuổi lừng lẫy như Phạm Tu - Khai quốc công thần nhà Tiền Lý; Phạm Ngũ Lão - một trong “Ngũ hổ tướng” của nhà Trần, anh hùng chống giặc Mông - Nguyên; hay một danh tướng nổi tiếng mà ít người biết ông mang họ Phạm, đó là Yết Kiêu, tên thật là Phạm Hữu Thế. Các văn thần có Phạm Kính Ân, Phạm Sư Mạnh, Phạm Tông Mại, Phạm Công Trứ, Phạm Phú Thứ… đều là những bậc công thần của các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn.

Trong lịch sử phong kiến, có đến 10 bà mẹ họ Phạm đã sinh ra các vị vua, tiêu biểu có thể kể đến bà Phạm Thị Ngọc Trần sinh ra Vua Lê Thái Tông; hay mẹ đẻ của Vua Tự Đức là Từ Dụ Thái hậu, tên thật là Phạm Thị Hằng, người được sử sách ca ngợi là người hiền đức xưa nay hiếm có, tên của bà được đặt cho một bệnh viện Phụ sản lớn nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh (do bị đọc sai lâu ngày nên viết sai thành Từ Dũ).

Trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao, họ Phạm cũng có những con người kiệt xuất như Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Cố Thủ tướng Phạm Hùng, “Huyền thoại tình báo” Phạm Xuân Ẩn, Nhà ngoại giao xuất sắc Phạm Văn Cương (được biết đến với tên gọi Nguyễn Cơ Thạch)...

Trong tôn giáo, tín ngưỡng, người Việt Nam có tục tôn thờ “Tứ bất tử” là bốn vị Thánh huyền thoại được nhân dân tôn vinh. Trong đó, Mẫu Liễu Hạnh - vị Thánh mẫu đứng đầu trong Tứ phủ của Đạo Mẫu Việt Nam, tương truyền tên thật của bà là Phạm Tiên Nga.

Về khoa cử, họ Phạm cũng là một dòng họ giàu truyền thống. Trong lịch sử khoa bảng nước nhà, đã có đến hơn 200 vị đại khoa mang họ Phạm được ghi danh trên bảng vàng. Trong đó, nổi bật nhất là ba Trạng nguyên, năm vị Bảng nhãn, bốn vị Thám hoa.

Những người họ Phạm còn tạo nên những cột mốc đáng tự hào mà ít dòng họ nào sánh kịp. Đó là phi công đầu tiên hạ siêu pháo đài bay B.52 của Mỹ và trở về an toàn, cũng là người châu Á đầu tiên bay vào vũ trụ, người Việt Nam đầu tiên ba lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng. Tên của kỷ lục gia ấy là Phạm Tuân. Còn có thể kể đến “Bà tổ của nghề Hát chèo Việt Nam” là cụ Phạm Thị Trân, nữ nghệ sĩ sống vào thời nhà Đinh. Ở cuối thế kỷ XV còn có vị Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ là người đầu tiên mang nghề dệt chiếu về Việt Nam.

Về kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa xã hội cũng có rất nhiều người họ Phạm được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Anh hùng Lực lượng vũ trang, Nhà giáo Nhân dân, Thầy thuốc Nhân dân, Nghệ sĩ Nhân dân, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, và rất nhiều nhà thơ nhà văn, nhạc sĩ nổi tiếng, như Nhà bác học Phạm Quang Lễ (Trần Đại Nghĩa), Giáo sư - Viện sĩ Phạm Huy Thông, Giáo sư - Tiến sĩ Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Giáo sư - Viện sĩ Phạm Song, Nghệ sĩ Nhân dân Phạm Khắc, Trung tướng Công an nhân dân Phạm Kiệt, Nhạc sĩ Phạm Duy, Nhạc sĩ Phạm Tuyên…

Thành tích của những người con họ Phạm được sử sách và cộng đồng ghi nhận là minh chứng sống động về nguồn cội và truyền thống vẻ vang của một trong những dòng họ nổi danh bậc nhất Việt Nam.

NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA DÒNG HỌ PHẠM

Họ Phạm Việt Nam là một trong những dòng họ lâu đời ở nước ta, xuất hiện từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước. Cũng như những dòng họ khác ở Việt Nam, họ Phạm gắn liền với những thăng trầm của lịch sử, những biến động về mọi mặt kinh tế, xã hội, văn hóa của đất nước. Và trong suốt chiều dài lịch sử ấy, dòng họ này đều có đóng góp vào công cuộc mở mang bờ cõi, bảo vệ quê hương, bảo tồn và phát triển những tinh hoa văn hóa của dân tộc, duy trì và phát triển giống nòi của họ tộc.

Theo các bản thần phả, thần tích ở nước ta thì họ Phạm xuất hiện từ thời Hùng Vương. Truyền thuyết kể lại rằng, Vua Hùng thứ 18 có một người con rể họ Phạm, gọi là Phạm Công. Những dấu tích còn sót lại về nhân vật lịch sử này được tìm thấy trên những ngôi mộ cổ ở Quảng Ninh, Thái Bình có niên đại cách ngày nay hơn 2.000 năm. Đến thời Vua An Dương Vương có danh tướng Phạm Gia đã giúp nhà vua dựng nước Âu Lạc. Sau khi Vua An Dương Vương bị Triệu Đà đánh bại, Phạm Gia đã lui quân về vùng Hoài Đức cùng nhân dân khai phá đất đai, lập ra trang Cái Chuôm, nay còn di tích ở xã Yên Nghĩa, Hoài Đức, Hà Tây. Tuy nhiên, chính sử của nước ta lại không ghi chép về những nhân vật lịch sử này, mà câu chuyện về họ chỉ được truyền miệng từ đời này sang đời khác.

Nhân vật họ Phạm đầu tiên xuất hiện trong chính sử như trong các bộ Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Việt sử ký tiền biên… là danh tướng Phạm Tu ở thế kỷ thứ VI. Ông là vị Khai quốc công thần nhà Tiền Lý, đã có công giúp Vua Lý Nam Đế đánh quân Lương, bình định Chiêm Thành, dựng nên Nhà nước độc lập Vạn Xuân vào năm 544. Phạm Tu sinh ngày 10 tháng 03 năm Bính Thìn 476 tại xã Quang Liệt, nay là Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Thân phụ là cụ ông Phạm Thiều, thân mẫu là cụ bà Lý Thị Trạch. Ông là vị tướng đứng đầu Ban Võ của triều đình của Vua Lý Nam Đế. Ông hy sinh trong trận chiến giữ thành Tống Bình khi ở tuổi 70. Ông được phong là Đô Hồ Đại vương, được thờ làm Thành hoàng tại đền thờ ở quê nhà Thanh Liệt. Như vậy, Phạm Tu là người họ Phạm có công với đất nước xuất hiện đầu tiên trong chính sử được biết cho đến ngày nay, vì thế mà Ban Liên lạc họ Phạm Việt Nam suy tôn cụ là Thượng Thủy Tổ của họ Phạm Việt Nam. Việc này có sự đồng tình của đông đảo con cháu họ Phạm và những sử gia của Việt Nam. Và lịch sử họ Phạm cũng được bắt đầu từ đây.

Vào thế kỷ X xuất hiện hai cha con danh tướng họ Phạm là Phạm Lệnh Công và Phạm Bạch Hổ, là những người có công lớn trong việc giúp Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán năm 938. Phạm Bạch Hổ sau đó đứng đầu một trong 12 sứ quân nổi tiếng thời nhà Ngô, nhưng rồi được Vua Đinh Tiên Hoàng trọng dụng, trở thành tướng tài, được phong chức Thân vệ Đại tướng quân. Ngoài danh tướng Phạm Bạch Hổ, Phạm Lệnh Công còn có một người con trai tên là Phạm Mạn. Ông Phạm Mạn sinh được hai người con là Phạm Hạp và Phạm Cự Lượng. Cả hai ông đều tinh thông võ nghệ, được liệt vào danh sách “Giao Châu thất hùng”, tức bảy người anh hùng đất Giao Châu bấy giờ, bao gồm Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, Lê Hoàn, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp và Phạm Cự Lượng. Trong đó, Phạm Hạp là một công thần của nhà Đinh, bề tôi tiết nghĩa đã sống chết với triều đại này, còn Phạm Cự Lượng đã có công lớn trong việc giúp Vua Lê Đại Hành đánh đuổi quân nhà Tống năm 981.

Sang đến thế kỷ XI, nhà Lý được thành lập với vị vua đầu tiên là Vua Lý Thái Tổ và có một điều ít ai biết rằng mẹ đẻ Vua Lý Thái Tổ là một người trong Phạm Tộc. Tên của bà là Phạm Thị Ngà, quê ở làng Dương Lôi (Tiên Sơn, Bắc Ninh). Thời Lý, họ Phạm phát dòng khoa bảng, trong triều có nhiều quan văn người họ Phạm. Người đỗ đạt đầu tiên của dòng họ là ông Phạm Công Bình, người làng Yên Lạc, trấn Sơn Tây. Sau đó còn có một vị họ Phạm đỗ đại khoa khác là Phạm Tử Hư, quê ở làng Nghĩa Lư (nay thuộc huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương).

Vào cuối triều Lý, xã hội rối ren, trăm họ loạn lạc, lúc ấy đã xuất hiện ba gương mặt họ Phạm đóng góp công sức vào việc thành lập triều đại mới của nhà Trần, đó là Phạm Kính Ân, một nhà chính trị, một tướng quân xuất sắc, được phong đến chức Thái úy; Phạm Ứng Thần, người được phong làm Thượng thư tri quốc tử viện đề điện; Phạm Ứng Mộng làm quan tới chức Hành khiển (ngang hàng với Tể tướng) dưới triều Vua Trần Thái Tông.

Năm 1258, quân Mông - Nguyên tràn sang xâm lược Đại Việt và rồi sau đó, chúng lại hai lần đưa quân sang tấn công nước ta vào các năm 1285 và 1288. Cả ba lần, giặc Mông - Nguyên đều bại dưới tay quan quân nhà Trần, trong đó có sự góp sức không nhỏ của nhiều người họ Phạm. Trong cuộc kháng chiến lần một, võ tướng Phạm Cự Chích đã không ngại hy sinh, tử chiến để giúp Vua Trần Thái Tông rút lui an toàn trong trận Bình Lệ Nguyên. Nhân vật họ Phạm sáng chói nhất dưới triều Trần chính là Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão. Theo tộc phả, ông là dòng dõi của Tướng quân Phạm Hạp thời Đinh – Tiền Lê. Phạm Ngũ Lão sinh năm 1255, thuộc chi họ Phạm định cư ở làng Phù ủng, huyện Đường Hào, lộ Khoái Châu (nay là Hưng Yên). Ông là người góp công rất lớn trong cả hai cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ hai năm 1285 và lần thứ ba năm 1288. Đương thời, danh tiếng của ông chỉ xếp sau Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn – người được xem là vị tướng vĩ đại nhất trong lịch sử quân sự phong kiến Việt Nam.

“Hổ phụ sinh hổ tử”, con trai Phạm Ngũ Lão là Phạm Nhữ Dực (1319 – 1409) cũng có công lao trấn áp giặc Chiêm Thành ở phương Nam, được phong Bình Chiêm Thượng tướng quân, tước Dực Nghĩa hầu. Phạm Nhữ Dực chính là Thuỷ tổ dòng họ Phạm ở Thanh Hóa, cũng là Cao Thuỷ tổ họ Phạm xứ Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay.

Một chi họ Phạm khác định cư ở làng Kính Chủ, phủ Kinh Môn (thuộc Hải Dương) cũng sinh ra danh thần Phạm Sư Mạnh, hậu duệ đời thứ 25 của Thuỷ tổ Phạm Tu, ông là học trò giỏi của Chu Văn An, đỗ Thái học sinh đời Vua Trần Minh Tông, là quan đại thần ba đời Vua Trần là Vua Trần Minh Tông, Vua Trần Hiển Tông và Vua Trần Dụ Tông, làm tới Nhập nội Hành khiển, Khu mật viện sự.

Dưới thời Lê, ngay từ những ngày đầu khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi, họ Phạm đã có hai người tham gia là Phạm Văn Xảo và Phạm Vấn. Phạm Văn Xảo được xếp vào hàng khai quốc công thần, phong chức Thái phó, được ban quốc tính họ Lê. Phạm Vấn được phong Đại tướng quân, Bình chương quân quốc trọng sự. Khi Vua Lê Thái Tổ mất, ông và Tể tướng Lê Sát làm phụ chính cho Vua Lê Thái Tông.

Nhân vật họ Phạm nổi bật dưới thời Vua Lê Thánh Tông là Phạm Nhữ Tăng, ông là hậu duệ đời thứ 28 của Thuỷ tổ Phạm Tu và là cháu năm đời của danh tướng Phạm Ngũ Lão. Phạm Nhữ Tăng đã giúp Vua Lê đánh bại quân Chiêm, hạ thành Đồ Bàn, bắt sống Vua Chiêm là Trần Toàn, tạo điều kiện mở rộng đất đai Đại Việt, thành lập thừa tuyên Quảng Nam, được phong là Bình Chiêm Hưng quốc Quảng Dương hầu. Ông chính là thuỷ tổ Phạm tộc ở Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay.

Có thể nói dưới triều Lê, họ Phạm rất hưng phát, sản sinh nhiều nhân tài cả văn lẫn võ. Trong số 1.758 vị đỗ đại khoa thời Lê, họ Phạm có tới 122 vị. Danh nhân họ Phạm thời Lê rất nhiều: đó là Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ, các danh thần Thượng thư Phạm Khắc Thận, Phạm Du, Phạm Bá Ký, Phạm Công Nghị, Phạm Phúc Chiêu, Phạm Hạo, Phạm Gia Mô, Phạm Khiêm Bính… Ngay trong hội thơ “Tao Đàn” của Vua Lê Thánh Tông cũng có bốn “tinh tú” họ Phạm trong “Nhị thập bát tú” nổi tiếng văn tài đương thời. Đó là Phạm Cổng Trực, Phạm Trí Khiêm, Phạm Đạo Phú và Phạm Nhu Huệ.

Thời Lê cũng là thời kỳ họ Phạm Việt Nam có sự chuyển cư rất mạnh, lan tỏa trong vùng châu thổ sông Hồng, ở vùng Sơn Nam Hạ (ngày nay là các tỉnh Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình) rồi vào Ái Châu (Thanh Hoá) và vào miền Nam Trung bộ, thuộc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định…

Dưới thời Vương triều Mạc, họ Phạm tiếp tục phát về đường khoa cử khi có tới hai vị Trạng nguyên là Phạm Đăng Quyết và Phạm Chất; hai Bảng nhãn là Phạm Công Sâm, Phạm Du; cùng một vị Thám hoa là Phạm Quang Tiến. Dưới triều Lê Trung hưng (1533 – 1789) dòng Phạm tộc cũng sinh nhiều danh nhân, tiêu biểu là Phạm Công Trứ (1601 - 1675), làm tới chức Thượng thư, Đông các đại học sĩ, Tể tướng, được phong tước Yên Quận Công. Ông cũng là đồng tác giả bộ “Đại Việt sử ký tục biên” đồ sộ.

Năm 1802, Vua Gia Long lập ra Vương triều Nguyễn, một nhân vật họ Phạm là Phạm Đăng Hưng (1765 – 1825) thuộc chi họ Phạm ở Thuận Hóa, sau định cư ở Gia Định, do lập nhiều công lao, được phong Thượng thư bộ Lễ kiêm Tổng tài quốc sử quán. Con gái của ông, bà Phạm Thị Hằng là Thứ phi của Vua Thiệu Trị, mẹ đẻ Vua Tự Đức. Bà nổi tiếng với danh phong Từ Dụ Hoàng Thái Hậu. Dưới triều Nguyễn, họ Phạm cũng đóng góp nhiều vị đại thần, tiêu biểu như: Tham tri Binh bộ Phạm Thế Hiển (1803 – 1861), người đã cùng Nguyễn Tri Phương chống giữ đại đồn Chí Hòa, ông hy sinh năm 1861. Hoàng giáp Tam đăng Phạm Văn Nghị (1805 – 1881) khi làm Đốc học Nam Định đã tổ chức cả một đội quân Nam tiến vào Đà Nẵng đánh Pháp. Hay Cơ mật viên đại thần, Hiệp biện đại học sĩ Phạm Thận Duật (1825 – 1882), người cùng Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương. Rồi các vị Thượng thư Đại thần như Phạm Phú Thứ (1820 – 1880), Phạm Hữu Nghị (1797 -1862)...

Trong công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ở thế kỷ XX, họ Phạm có thể tự hào là đã hiến dâng cho nhiều người con xuất chúng. Đó là Liệt sĩ cách mạng Phạm Hồng Thái sống mãi với tiếng bom Sa Điện ngày 18 tháng 06 năm 1924; hai vị Thủ tướng của nhà nước Việt Nam mới là Phạm Văn Đồng quê Quảng Ngãi và Phạm Hùng quê ở Vĩnh Long; là nhà ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tên thật là Phạm Văn Cương, quê Nam Định.

Trong các lĩnh vực văn hóa – khoa học, họ Phạm cũng có những gương mặt nổi bật như Giáo sư Viện sĩ Phạm Huy Thông; nhà bác học – Anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa, tên thật là Phạm Quang Lễ; Giáo sư bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - một trong những người tiên phong sự nghiệp y tế cách mạng…

Có thể thấy rằng xuyên suốt lịch sử phát triển, những người con họ Phạm nổi tiếng đều là những bậc trung thần nghĩa sĩ đã đem hết tài năng, sức lực phụng sự cho Tổ quốc, cho dân tộc. Để củng cố hơn nữa tình đoàn kết trong cộng đồng dòng tộc và phát huy những truyền thống tốt đẹp của tổ tiên, ngày 24 tháng 10 năm 1996, Ban Liên lạc các dòng họ Phạm tại Hà Nội được thành lập tại Đền thờ danh tướng Phạm Ngũ Lão ở Hà Nội, hoạt động trên địa bàn Hà Nội; đến ngày 31 tháng 05 năm 2002, phát triển và đổi tên thành Ban liên lạc họ Phạm Việt Nam, hoạt động trên phạm vi toàn quốc.

Tôn chỉ mục đích của Ban liên lạc họ Phạm Việt Nam là:

Nhằm tăng cường tinh thần tương thân tương ái của bà con đồng tộc dòng họ Phạm Việt Nam đoàn kết với các họ tộc khác, cùng phấn đấu góp phần xây dựng một nước Việt Nam phồn thịnh, sánh với các nước trên thế giới như nguyện vọng hàng ngàn đời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Theo truyền thống “uống nước nhớ nguồn” tìm về cội nguồn, nối kết dòng tộc, khôi phục và phát huy truyền thống tốt đẹp của dòng họ. Trước hết là các hoạt động vấn tổ tầm tông, xây dựng và tục biên gia phả, tộc phả rồi gắn kết với nhau thành các ngành lớn nhiều đời. Tìm Thủy tổ của các ngành, các chi phái chưa gắn kết được với nhau.

Thực hiện việc khuyến học khuyến tài, giúp nhau xóa đói giảm nghèo, tìm biện pháp giúp đỡ nhau cả về tinh thần và vật chất.

Xây dựng văn minh dòng họ, chống các hủ tục như tế lễ linh đình, kéo bè kéo cánh gây mất đoàn kết trong làng xóm, phường xã, v.v…

Ngày 24 tháng 10 năm 2011, tại phiên họp toàn thể lần thứ hai của Ban liên lạc họ Phạm Việt Nam khóa VI nhân kỷ niệm 15 năm thành lập, Hội nghị đã nhất trí đổi tên Ban liên lạc họ Phạm Việt Nam thành Hội đồng họ Phạm Việt Nam cho phù hợp với sự phát triển tổ chức của dòng họ hiện nay.

Với hệ thống tổ chức 5 cấp (gồm cấp Toàn quốc; cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp huyện, quận; cấp xã, phường, thị xã; và cấp cơ sở là Hội đồng gia tộc). Hiện nay tổ chức của Hội đồng họ Phạm Việt Nam đã có mặt rộng rãi ở nhiều nơi, rải khắp từ đỉnh đầu Tổ quốc là Hà Giang tới mũi Cà Mau. Đã có 32 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tổ chức của Hội đồng họ Phạm Việt Nam như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Quảng Nam, Đà Nẵng, Hà Giang, Quảng Ninh, Bình Định, Quảng Ngãi, Lâm Đồng, Thừa Thiên Huế, Cần Thơ, v.v…; hàng trăm Hội đồng cấp quận huyện thị, cấp xã, phường; và rất nhiều Hội đồng gia tộc, Hội đồng dòng họ lớn ở khắp nơi như Phạm Đạo Soạn (gốc Kính Chủ - Hải Dương), Trần triều Điện Soái Phạm Ngũ Lão (gốc Hưng Yên), Đông Đồ (Đông Anh, Hà Nội), Phạm Ngàn Ngu (Ninh Bình), Phạm Vũ Đôn Thư, Phạm Huy (Thanh Oai, Hà Nội), Phạm Văn Viết (gốc Sơn Tây), Phạm Đông Ngạc (Từ Liêm, Hà Nội), Phạm Đình (Thượng Hội, Đan Phượng), Phạm Nhữ (miền Trung, Bình Định), Phạm Khắc (Hà Tĩnh), Phạm Khắc (Bến Tre), Phạm Linh Kiệt (Nghệ An)...

Những công lao của các bậc tiền nhân họ Phạm và con cháu họ Phạm ngày nay đều rất xứng đáng được khắc ghi, trân trọng. Những người con của dòng họ Phạm sẽ mãi là niềm tự hào của đất nước và cần phát huy hơn nữa truyền thống anh hùng của tổ tiên để những chiến công anh hùng từ ngàn xưa của cha ông sẽ mãi được muôn đời tỏa sáng.

Tổng quan về dòng họ Phạm Việt Nam

90 Lượt xem
other
Tặng đá Báo cáo
Chia sẻ

Ý kiến (0)