để tặng cho tác giả tài liệu này

Đã đánh giá tài liệu
Cảm ơn bạn đã phản hồi
Tác giả: Mạc Bảo Thần (dịch)
Nhà cung cấp: NXB Tân Việt
“Lam Sơn thực lục” do Nguyễn Trãi biên soạn (bằng chữ Hán) theo lời của Vua Lê Thái Tổ, được viết từ ngày mùng 6, tháng 12, năm Thuận Thiên thứ 4, 1431; kể lại quá trình khởi nghĩa đánh bại quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn. Nhà Vua đích thân viết lời tựa, ký là Lam Sơn động chủ. Cuốn “Lam Sơn thực lục” của dịch giả Mạc Bảo Thần in năm 1956 được dịch từ bản tiếng Hán do các đại thần triều Vua Lê Hy Tông (1675 - 1705) sửa lại bộ Lam Sơn thực lục theo lệnh của Hoàng đế.
Tựa
(Khi sửa lại bộ Lam Sơn thực lục)
Vua Thái Tổ Cao Hoàng đế của ta, ứng Trời, thuận người, nhân thời mở vận, khởi nghĩa ở núi Lam, quét thanh lũ giặc Minh. Kịp khi Kiền khôn đã trở lại như cũ, Vũ trụ đã thay đổi sang mới, khi ấy mới làm sách “Thực lục”. Trong đó: nào ý trời xui khiến; nào việc người chăm nom; nào vì nghĩa cất quân; nào ra nguy vào hiểm; nào khi lấy ít địch nhiều; nào khi lấy thực đánh hư; nào khi làm giấy tờ phản gián để quấy rối tình giặc; nào khi lấy lời lẽ phủ dụ để yên ủi lòng dân. Rồi ra, trăm trận đánh, trăm trận thắng, để có được thiên hạ. Cùng với: bài đại cáo khi bình giặc Ngô, đều là những lời trung, nghĩa, trí, dũng; lẽ phải chăng dạy lại con cháu, đều là những đạo tu, tề, trị, bình... Xét ra những việc mà chính mình Nhà Vua đã làm, không việc gì là không chép đủ. Bộ sách này, cốt ý bày tỏ sự khó khăn về việc gây dựng nghiệp đế, bảo cho con cháu được biết, để làm của báu gia truyền mãi mãi; há những chỉ là khoe khoang tài võ như thần, tài văn như thánh mà thôi đâu! Phiền nỗi thế đạo giữa chừng sa sút, mà bộ sách này cơ hồ bị ngọn lửa tàn ác đốt cháy, trong hồi lấn ngôi, cướp nước. Thế nhưng công đức ở trong Trời Đất nào phải không còn; lẽ phải ở trong lòng người có mất sao được?
Tới đức Hoàng đế Bệ hạ ngày nay, sớm chịu mệnh trời, nối giữ nghiệp báu; đức, nghĩa, ngày một tiến; sức học ngày một cao; thực là nhờ chúa Công đức Nhân Uy Minh Thánh Tây Vương, lĩnh chức Đại nguyên soái, Chưởng quốc Chinh, Thái sư, Thượng phụ, có công nuôi nấng, đúc hun, giúp đỡ, gầy dựng; ghi nhớ ơn đức của Tiên vương, sửa sang giềng mối của lễ nhạc, để làm cỗi gốc cho việc nương tựa, phù trì; chuyên ủy cho chúa Định Nam Vương lĩnh chức Nguyên soái Điền quốc chinh, duy trì danh giáo, gây nên thái bình. Cùng các quan thân thần, huân thần, giảng cầu đạo trị nước. Dỡ coi sách vở, nhìn vào tục cũ, thấy đấng Tiên Tổ dựng nghiệp thật là khó khăn; được nước thật là chính đáng; từ khi nước Việt ta lập thành nước đến giờ, chưa từng có việc như thế. Nếu chỉ coi xem qua loa, mà không kén lựa những điều cốt yếu, thì sao có rõ rệt được nền công đức trăm đời không thể dời đổi, mà khiến cho muôn thủa còn như trông thấy trước mắt được? Bèn nhân những ngày rỗi, thường vời quan Tể tướng cùng các nho thần bàn đến việc kinh doanh nghiệp lớn của các bậc đế vương tự đời xưa. Cho là bản sách cũ tuy có sao chép lại, thỉnh thoảng còn có chỗ lẫn sót, chưa dễ hiểu cho hết. Vậy nay muốn soạn lại cho thật kỹ lưỡng, thuần túy, dùng để khắc vào bản gỗ, ngõ hầu công nghiệp của bậc Tiên đế lại sáng tỏ với đời! Bèn sắc chúng tôi, tham khảo với bản chép cũ của các nhà mà sửa sang lại: lầm thì chữa; sót thì bù; để đọc coi cho tiện, truyền bá cho rộng.
Chúng tôi vâng lĩnh lời vàng, đâu dám không gia công tìm tòi, chắp vá, sắp lại thành sách, kinh chép dâng lên, để đợi trí sáng suốt coi tới. Được cho tên là bộ “Lam Sơn thực lục sửa lại”. Lập tức sai thợ mộc khắc bản, để lại lâu dài. Khiến cho trong thiên hạ, ai ai cũng biết đến đức Tiên đế: công lấy lại nước ở tay giặc Ngô, còn trội hơn là việc trừ quân tàn bạo của Hán Cao; ơn cứu được dân khỏi vòng nước lửa, nào có kém gì việc chữa nạn lụt lội của Hạ Vũ. Ơn đức Ngài chót vót như núi Kiền, núi Thái; công nghiệp ngài rực rỡ như mặt trăng, mặt trời. Than ôi! Người chép bộ sách này, nào phải như kẻ viết “Lĩnh nam trích quái”, bày ra những chuyện hoang đường; như kẻ viết “Việt Điện u linh” góp lại những lời quái gở! Chỉ là ghi lại những việc thực, để cho ngôi nước được chính, nghiệp vua được rõ mà thôi! Rồi đây sẽ thấy huân nghiệp của Tổ tông chói lọi ở trên tờ ngọc; công lao của Tổ tông sáng ngời để giữa sách vàng! Công ấy, đức ấy, thường rực rỡ với nghìn muôn đời vậy. Bàn viết để làm lời tựa.
Khi ấy là ngày tốt lành, tháng cuối Xuân, năm đầu niên hiệu Vĩnh Trị.
Đặc tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại phu, Tham tụng, Công bộ Thượng thư, kiêm Đông các Đại học sĩ, coi việc chép Quốc sử, Duệ quận công, Thượng trụ quốc, tôi là Hồ Sĩ Dương.
Gia Tĩnh đại phu, Bồi tụng, Lại bộ Tả thị lang, vào hầu việc Giảng Sách. Sử quán Đô Tổng tài, tôi là Đặng Công Chất.
Quang Tiến Thận lộc đại phu, Bồi tụng, Lại bộ Hữu thị lang vào hầu việc Giảng Sách, Sử quán Tổng tài, Lại An Nam, tôi là Đào Công Chính.
Triều Liệt Đại phu, Tham Chính trong ty Tán trị Thừa chính ở các xứ Sơn Nam... Sử quán Toản tu, tôi là Thiều Sĩ Lâm.
Mậu Lâm lang, Bồi tụng, Đông các Hiệu thư, Sử quán Phó Toản Tu, tôi là Nguyễn Công Vọng.
Mậu Lâm lang, Hiến sát sứ ở ty Hiến sát sứ, coi các xứ Nghệ An... Sử quán Phó Toản Tu, tôi là Lê Hùng Xưng.
Nội sai Thái giám trong Thị Nội giám, Tư Lễ giám, Lĩnh Xuyên hầu, tôi là Phạm Thế Vinh.
Nội sai Hữu đề điểm trong Tư Lễ giám, Khoan Thái bá, tôi là Phạm Đình Liêu.
Cùng vàng sắc coi việc sửa sách.
Trị trung trong sở Thủ hợp Thị Nội Thư tả tôi là Ngô Thục Đức;
Chính tự trong sở Thủ hợp Thị Nội Thư tả tôi là Hàn Tung;
Huyện thừa trong sở Thị Nội Nhưng Thư tả tôi là Nguyễn Luân;
Tự thừa trong sở Thị Nội Nhưng Thư tả tôi là Nguyễn Đăng Doanh;
Huyện thừa trong sở Thị Nội Nhưng Thư tả tôi là Lê Tiến Nhân;
Sứ coi sở Thị Nội Nhưng Thư tả tôi là Lê Duy Lương;
Huyện thừa trong sở Thị Nội Nhưng Thư tả tôi là Nguyễn Đăng Khoa;
Cùng vâng sắc viết;
Thợ mộc, người các xã Hồng Lục, Liễu - chàng vâng sắc khắc bản in.
Mục lục
Tựa của Vua Lê Thái Tổ - Trang 8
Cuốn thứ nhất - Trang 13
Cuốn thứ hai - Trang 31
Cuốn thứ ba - Trang 49
Phụ lục - Trang 75
Ý kiến (0)