DJC

Đã đánh giá tài liệu

Cảm ơn bạn đã phản hồi

Sử ký Tư Mã Thiên

Tài liệu miễn phí

Nước Tàu xưa có một nhà văn học phê bình. Nhà ấy là Thánh Thán. 

Thánh Thán sinh vào thế kỷ mười bảy hồi cuối Minh sang Thanh. 

Cứ kể nguyên về cái tên con người ấy đã tác quái rồi: Tên ông là Vị, họ Dư, Thánh Thán là tự. Rồi vì cái tự ấy ông đổi tên là Nhân Thụy và đổi luôn cả họ theo họ Kim. 

Về văn học ông còn tác quái hơn: Hồi ấy, ở nước Tàu lối văn chương cổ điển, quý tộc vẫn giữ bá quyền. Vậy mà ông dám nói: “Kể văn chương xưa nay chỉ có sáu “người viết đáng gọi là tài tử”: một là Trang Chu, viết Nam Hoa Kinh; hai là Khuất Nguyên, viết Ly - Tao; ba là Tư Mã Thiên, viết Sử Ký; bốn là Đỗ Phủ, viết các lối thơ luật; năm là Vương Thực Phủ, viết Tây Sương Ký; sáu là Thị Nại Am, viết Thủy Hử”. 

Khen văn thơ của Trang, của Khuất, của Tư Mã, của Đỗ, cái đó khác nào ta khen  “phò mã tốt áo”... Thế nhưng dám kéo Vương Thực Phủ với Thi Nại Am lên ngồi cùng một chiếu với bốn ông trên, thì thực là một anh chàng gan nuốt búa mà mắt tầy rổ! 

Bởi vì Tây Sương là một vở tuồng mà Thủy Hử chỉ là một bộ truyện… 

Tuồng và truyện, người thời ấy cho là những thứ văn nhảm, kẻ đứng đắn không thèm viết. 

Chẳng những thế viết hai món văn nhảm ấy tác giả lại dùng một thứ chữ nhảm: chữ bạch thoại! Thứ tiếng nói thông thường của đàn bà con trẻ ấy, các nhà văn nói hằng ngày cũng ít khi nói đến, đừng kể chỉ là dùng vào văn chương.

Vậy, đem hai tập văn nhảm, viết bằng một thứ chữ nhảm ấy mà khen rầm trời, tức là “nói cho thiên hạ vả miệng chơi!” - lời cụ Đào Nguyên Phổ nhà ta đã dạy! 

Tuy nhiên, cái con người có gan để cho kẻ đồng thời vả miệng đó, đã được ngàn sau thán phục là có con mắt tinh đời! Tây sương và Thủy Hử chinh là hai bộ sách có giá trị nhất của nền văn học bình dân nước Tàu khi mới phôi thai. Mà thứ chữ bạch thoại thì ngày nay ở trường học cũng như ở đàn văn đã nghiễm nhiên thay chân cho thứ chữ văn ngôn, bị loại làm một món đồ cổ! 

Nói cho thực thì Thánh Thán là một tay cách mạng trong văn học giới. Nhưng văn học giới đã không đủ chỗ để chứa cái tâm hồn to tát ấy! 

Thấy việc nước nát bét vì bọn quan lại tham tàn, ông liền theo phái Thanh Nghị, đem ba tấc lưỡi nói chuyện văn chương mà nói chuyện triều đình! Và vẫn với tinh thần cứng cáp và tinh ranh, ông phê văn nghiệt ngã chừng nào, thì ông chửi đời cũng chua cay chừng ấy! Rồi, sau bao năm lăn lóc, một khi thấy việc đời chửi cũng không thể chuyển được như là cười hoặc khóc; một khi thấy cây bút trong tay mình là bất lực, ông liền quăng nó đi mà cầm lấy cây gươm! Chuyện đó có thực, hay do phe địch bịa ra? Cái án ấy cũng ngời như cái án Cao Bá Quát nước ta. Và cũng như ông Quát, đầu Thánh Thán đã rơi dưới cái tội danh phản đối triều đình! Nhà văn học cách mạng đã chết trong một việc chính trị cách mạng!

Chúng tôi tưởng cần phải giới thiệu câu chuyện đó ra đây sau khi đã trình với các bạn ba bản dịch “Tây Sương”, “Ly - Tao”, và “thơ Đỗ Phủ”. Nhất là dưới đây chúng tôi lại tạm dịch hầu các bạn những đoạn văn mà người xưa cho là hay nhất trong bộ “Sử ký” của Tư Mã Thiên.

Chúng tôi mong trong một ngày rất gần đây sẽ có thể cho ra mắt các bạn bản dịch toàn bích bộ Cổ sử có giá trị ấy 

Trên Phong Mãn Lâu, đêm 28, tháng 1, năm Giáp Thân (1944) 

Nhượng Tống

Lời tác giả

182 Lượt xem
other
Tặng đá Báo cáo
Chia sẻ

Ý kiến (0)

Tài liệu liên quan

  • 5
    Lịch sử các quốc gia Đông Nam Á trừ Việt Nam (từ nguyên sơ đến thế kỷ XVI)

    Kim cương

    Miễn phí

    Rating

    0.0/5

    Lượt xem

    125