DJC

Đã đánh giá tài liệu

Cảm ơn bạn đã phản hồi

Giới thiệu Lương Tộc Việt Nam

Tài liệu miễn phí

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ DÒNG HỌ LƯƠNG VIỆT NAM

Nước Nam ta từ thuở dựng nước cho đến ngày nay đã chứng kiến rất nhiều họ tộc hình thành, phát triển và góp công vào đại nghiệp dựng nước và giữ nước. Trong đó, họ Lương là một dòng họ rất có uy tín, sản sinh ra nhiều nhân vật tầm cỡ được hậu thế nhớ đến với học vấn xuất chúng, phẩm chất hơn người, tên tuổi được lưu danh trong các bộ chính sử hoặc các câu chuyện cổ dân gian. Chắc hẳn chúng ta vẫn còn nhớ về một trong những nhà toán học tài ba bậc nhất trời Nam là “Trạng Lường” Lương Thế Vinh, vị thần đồng trong các giai thoại nổi tiếng như “Cân voi”, “Pháp sư gọi bưởi”... bên cạnh đó là những nhân hiệu kiệt xuất mang họ Lương khác như Lương Đắc Bằng, Lương Hữu Khánh, Lương Văn Can, Lương Ngọc Quyến… Vậy họ Lương là dòng họ như thế nào và ẩn chứa những sự thật thú vị nào về lịch sử phát triển của dòng họ này?

Họ Lương là một họ phổ biến ở vùng văn hóa Á Đông, tập trung ở các quốc gia như Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên… Ở Trung Quốc, có truyền thuyết cho rằng họ Lương là từ tộc “Doanh” mà ra. Họ Doanh vốn là dòng họ hoàng gia của nước Tần thời Chiến quốc, nước này sau đó đã lập nhà Tần - triều đại phong kiến đã thống nhất Trung Hoa sau thời Xuân thu - Chiến quốc. Nhưng theo thông lệ, chỉ ngành trưởng mới được mang họ Doanh còn các ngành sau thì lấy tên đất phong ấp để làm họ. Vào thời Tần Trang Công, có một người con của ông được ban đất ở Hạ Dương, nhận tước Lương bá, sau này, hậu duệ của vị Lương bá ấy đã lấy tước vị để làm họ tên và họ Lương ở Trung Quốc ra đời từ đó. Còn trên lãnh thổ Việt Nam, tuy không đông đảo về số lượng (chỉ chiếm khoảng 0,7% dân số cả nước) nhưng họ Lương vẫn luôn được xem là một dòng họ lớn bởi tầm vóc của dòng họ này được thể hiện ở nhiều khía cạnh. Trước hết là về không gian, họ Lương phân bố ở khắp 63 tỉnh thành, ở đâu cũng có con dân họ Lương sinh sống. Về khía cạnh thời gian, trong suốt 4.000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, ở bất kể thời kỳ lịch sử nào cũng xuất hiện con cháu Lương tộc đứng ra thi thố tài năng để giúp nước giúp đời, góp mặt trong mọi lĩnh vực từ chính trị, quân sự đến văn hóa, giáo dục, ngoại giao…

Theo cổ sử, họ Lương Việt Nam xuất hiện từ thời Văn Lang. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, lúc thăng lúc trầm, họ Lương đã cùng với cộng đồng hàng trăm tộc họ của người Việt góp công, góp của cho công cuộc giữ nước, mở mang bờ cõi và tạo nên tầm ảnh hưởng sâu rộng của dòng họ đối với tiến trình lịch sử Việt Nam. Người họ Lương nổi tiếng với nhiều truyền thống tốt đẹp như truyền thống yêu nước, hiếu học, đoàn kết, nhân hậu… Con trai họ Lương nổi tiếng là những người văn võ tài hoa, đời đời đều có người nối nghiệp bảng vàng, điển hình là 11 vị khoa bảng họ Lương đã được khắc tên trên văn bia Quốc Tử Giám như Lương Thế Vinh, Lương Đắc Bằng, Lương Hữu Khánh… Con gái họ Lương thì cần cù chịu khó, đảm đang mọi việc, không những tề gia nội trợ, xây dựng gia đình mà còn tích cực tham gia việc làng, việc nước mạnh dạn không kém gì các đấng nam nhi, được sử sách ngợi ca như Lương Thị Kiều, Lương Thị Tấu, Lương Thị Hồng… Bởi thế mà từ bao đời nay, dân gian Việt Nam vẫn truyền tụng câu ca “Con gái họ Lương, chân gác bờ tường, phe phảy quạt mo…” để tôn vinh tài năng, ý chí mạnh mẽ, sự can đảm của những người phụ nữ họ Lương.

Ngày nay, người họ Lương đã có mặt ở khắp trong Nam ngoài Bắc, từ địa đầu Lạng Sơn đến mũi Cà Mau, từ đồng bằng đến miền núi và ngoài người Kinh thì còn nhiều dân tộc khác cũng có người mang họ Lương như dân tộc Thái, Mường, Tày, Nùng… Dòng tộc họ Lương dù ở nơi đâu hay dân tộc gì thì vẫn luôn mang tinh thần yêu nước, luôn đóng góp sức lực, tinh thần và của cải xây dựng quê hương đất nước ngày càng phát triển, xứng danh là dòng họ anh hùng của Tổ quốc Việt Nam.

CÂU CHUYỆN VỀ NGUỒN GỐC HỌ LƯƠNG VIỆT NAM

Họ Lương là dòng họ nổi tiếng ở Việt Nam không chỉ ở hiện tại mà còn trong quá khứ. Tuy nhiên, nguồn gốc thực sự của dòng họ đến nay vẫn còn là một ẩn số và cũng không ai rõ cụ Thủy tổ họ Lương là ai. Nhiều năm qua, các nhà nghiên cứu lịch sử, gia phả và con cháu của họ Lương đã miệt mài đi tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi này và từ đó cũng bắt đầu xuất hiện một vài giả thuyết, một vài manh mối về nguồn cội, tổ tiên họ Lương.

Họ Lương đầu tiên được biết đến ở Châu Á có thể xuất hiện vào khoảng thế kỷ IX - VIII TCN. Bấy giờ, Trung Quốc đang dưới thời kỳ trị vì của nhà Chu. Các Vua Chu phân phong đất đai cho các chư hầu, trong đó có nước Tần của họ Doanh. Trong hoàng tộc họ Doanh có một quy định rằng chỉ những người thuộc chi trưởng mới được thừa hưởng họ gốc, tức vẫn mang họ Doanh, còn các ngành thứ trở đi thì phải lấy tên đất được phong ấp để làm họ. Thời Tần Trang Công cai trị nước Tần từ 822 TCN - 778 TCN, ông có một người con trai được ban đất Hạ Dương (thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc ngày nay) và lấy tước phong là Lương bá. Sau mấy đời nối nghiệp, hậu duệ của vị Lương bá ấy đã lấy tước vị “Lương” để làm họ cho mình và từ đó khai sinh ra dòng họ Lương. Thế rồi, trải qua những biến thiên của lịch sử, nhất là ở Trung Quốc thời cổ đại với rất nhiều cuộc chiến tranh loạn lạc, thêm vào đó là sự mở rộng lãnh thổ về phương Nam của các vua chúa Trung Hoa dẫn đến sự di cư của người họ Lương và Việt Nam đã trở thành một điểm đến để lập nghiệp của dòng họ này. Bằng chứng là trong thời kỳ Bắc thuộc, ở nước ta đã xuất hiện nhiều quan lại cai trị người Trung Quốc mang họ Lương như Lương Kỳ, Lương Thạc thời nhà Tấn…

Một giả thuyết nữa đó là họ Lương Việt Nam xuất hiện đồng thời cùng với các dòng họ đầu tiên của Việt Nam. Có nhiều ý kiến cho rằng, vào đầu Công nguyên, người Việt ta vẫn chưa có họ. Đến khi người Trung Quốc sang xâm lăng và đặt ách cai trị, chúng tiến hành quản lý dân cư bằng cách bắt người Việt đặt tên họ để dễ bề quản lý. Tuy nhiên, nhiều sách dã sử của dân tộc cũng ghi chép về sự hình thành họ của người Việt có từ thời Hùng Vương. Cuốn sách nổi tiếng nhất là Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp ghi chép những câu chuyện, truyền thuyết từ thời Hùng Vương được truyền trong văn hóa dân gian. Trong cuốn sách đã có đề cập về một số dòng họ như họ Cao, họ Lưu trong truyện “Trầu Cau”, họ Chử trong truyện “Đầm Nhất Dạ”, họ Mai trong truyện “Dưa hấu” hay họ Lý trong truyện “Lý Ông Trọng”. Với các phong tục, tập quán có từ thời Hùng Vương được chép trong sách Lĩnh Nam chích quái hiện vẫn được người Việt duy trì trong văn hóa của dân tộc mình thì có thể tin rằng họ của người Việt đã xuất hiện từ sớm. Trong đó, họ Lương cũng rất có thể đã được hiện diện cùng thời điểm đó bởi ngay trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, cuộc khởi nghĩa sau thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc, tại xã Hồng Việt, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình đã có hai chị em Lương Thị Kiều và Lương Thị Tấu tham gia chiến đấu, hoặc trước đó có cụ Lương Kỳ Tiên, quê ở huyện Đường Hào, nay là phường Thụy Vân, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, là Lạc tướng của Vua Hùng thứ 18. Từ đó cho đến nay, họ Lương đã ghi dấu ấn của dòng họ mình trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

LƯỢC SỬ HỌ LƯƠNG VIỆT NAM

Kể từ khi hình thành từ thời kỳ tiền sơ sử, họ Lương dần phát triển dòng họ của mình cả về số lượng và địa bàn cư trú. Bắt đầu từ vùng đất Bắc Bộ trù phú, người họ Lương dần tỏa đi khắp nơi, đặc biệt là các tỉnh như Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh Hóa để vừa khai phá những vùng đất mới và mở rộng lãnh thổ đất nước.

Trong thời kỳ Bắc thuộc, những người họ Lương đã kề vai sát cánh cùng với toàn thể nhân dân đấu tranh để đòi lại nền độc lập từ giặc phương Bắc. Người họ Lương đã tham gia vào rất nhiều cuộc khởi nghĩa, bằng nhiều cách khác nhau như tướng lĩnh chỉ huy, tham gia chiến đấu, ủng hộ các nghĩa quân… Tất cả những sự đóng góp về vật chất, tinh thần, sự hy sinh xương máu của người họ Lương đã góp phần làm nên thắng lợi cuối cùng của nhân dân ta trong cuộc chiến trường kỳ với kẻ thù ngoại xâm từ năm 179 TCN cho đến năm 938.

Bước sang thời kỳ phong kiến độc lập, họ Lương có những bước tiến lớn để khẳng định vai trò, vị thế của mình. Trong thời kỳ này, người họ Lương dần tham gia vào chính sự của đất nước, đứng trên vũ đài chính trị Đại Việt để thi thố tài năng. Con đường lập nghiệp được đông đảo con cháu họ Lương lựa chọn đó là con đường tiến thân bằng nghiệp khoa cử, bởi đây là thời kỳ triều đình phong kiến rất coi trọng nhân tài, những người có trí tuệ, tài đức có một chỗ đứng vững chắc trong xã hội. Đồng thời, chế độ khoa cử đã được hình thành và ngày càng hoàn thiện nhằm giúp cho các vị vua chúa tìm ra được những con người lỗi lạc, học hành giỏi giang để có cơ hội ra giúp triều đình, phục vụ đất nước. Đây lại là một điểm mạnh và truyền thống vẻ vang của dòng họ Lương nên tài năng của con cháu dòng họ nở rộ rất nhiều trong thời kỳ này.

Không khó để lịch sử có thể liệt kê những danh thần, mưu sĩ họ Lương nổi tiếng bởi hầu như triều đại nào cũng có bóng dáng người họ Lương góp công, góp sức cho sự hưng thịnh của đất nước. Thời Lý - Trần có Lương Mậu Tài, Lương Nhậm Văn… có công trong việc giữ vững sự hòa hiếu, mối quan hệ bang giao tốt đẹp với Bắc quốc. Đến thời Hậu Lê, họ Lương có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền khoa học, kỹ thuật, giáo dục của nước nhà với nhiều tên tuổi lừng danh như Lương Thế Vinh, Lương Đắc Bằng…

Thời kỳ quân chủ độc lập từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX cũng là quãng thời gian lãnh thổ nước Việt không ngừng được mở rộng, vì thế địa bàn cư trú của người họ Lương cũng theo đó mà phát triển. Không chỉ giới hạn ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ như thời kỳ đầu mà người họ Lương dần có mặt ở phương Nam, đến những vùng đất xa xôi nhất của đất nước để đánh dấu sự hiện diện của dòng họ và khẳng định chủ quyền của Tổ quốc. Từ thời Vua Lê Đại Hành, trong tập Bắc Địa Tấu Từ đã có ghi chép về địa bàn sinh sống của một số chi nhánh họ Lương lớn như ở tỉnh Sơn Tây có dòng tộc của cụ Thủy tổ Lương Trọng Lịch; tỉnh Hà Tĩnh có cụ Thủy tổ Lương Công Anh gây dựng dòng họ của mình; làng Lệ Sơn, nay là xã Văn Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình là nơi hậu duệ của cụ Thủy tổ Lương Bá Phiếm sinh sống; ở tỉnh Quảng Nam, làng Phước Tích (Thừa Thiên - Huế), xã Hoà Bình (huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình) cũng có hàng trăm con cháu dòng tộc họ Lương lập nghiệp. Đặc biệt, vào thế kỷ XVII xuất hiện nhân vật Lương Văn Chánh, một võ quan của Chúa Nguyễn có công với sự nghiệp chiêu tập lưu dân khai khẩn, mở mang và khai phá vùng đất Phú Yên, từ đó, con cháu họ Lương Phú Yên có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Có thể nói rằng, diện tích lãnh thổ, hình dáng nước Việt Nam ngày nay có dấu ấn không nhỏ của những người họ Lương.

Trong thời kỳ cận đại và hiện đại, dòng họ Lương đã tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp của mình và có những đóng góp quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Khi cả nước đang sục sôi trong phong trào đấu tranh yêu nước đầu thế kỷ XX, những người con họ Lương đã tham gia rất nhiệt tình, vừa đấu tranh vũ trang, vừa tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước, khơi dậy ý thức của đồng bào. Họ Lương có mặt trong các phong trào đấu tranh như Cần Vương, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, Khởi nghĩa Yên Thế, Khởi nghĩa Thái Nguyên… với một khát vọng cháy bỏng là giúp cho nhân dân ta hoàn toàn thoát khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp.

Đến năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt lớn đối với cách mạng, từ đó đã xuất hiện nhiều nhà cách mạng họ Lương lỗi lạc với tầm nhìn chính trị sắc bén, ý chí kiên trung và chiến đấu quên mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Không chỉ có vậy, họ Lương còn có những đóng góp to lớn về sức người, sức của để phục vụ cho hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc là Kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) và Kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975). Rất nhiều Anh hùng, Liệt sĩ mang họ Lương đã cống hiến trọn vẹn tuổi thanh xuân, không ngại ngần hy sinh xương máu trên chiến trường, nhiều bà mẹ Việt Nam anh hùng họ Lương đã động viên chồng con lên đường nhập ngũ còn mình tham gia sản xuất, giữ vai trò hậu phương chi viện cho tiền tuyến. Những sự hy sinh anh dũng ấy đã giúp cho đất nước Việt Nam sạch bóng quân thù, hai miền Nam - Bắc được thống nhất .

Khi hòa bình được lập lại, những người mang họ Lương tiếp tục góp phần vào sự phát triển của đất nước trong nhiều lĩnh vực như khoa học, giáo dục, kinh tế và văn hóa. Nhiều người họ Lương đã trở thành những nhà khoa học, nhà giáo dục, doanh nhân và nghệ sĩ nổi tiếng, góp phần vào sự phát triển của xã hội. Những đóng góp của họ đã được ghi nhận và tôn vinh, trở thành niềm tự hào của dòng họ và của cả dân tộc. Một sự kiện đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của dòng họ Lương Việt Nam đó là sự ra đời của Ban Liên lạc họ Lương Việt Nam năm 2008 nhằm gắn bó thêm tình đoàn kết giữa các thành viên trong họ tộc, giúp đỡ con cháu họ Lương trên khắp mọi miền Tổ quốc, sưu tầm các tài liệu lịch sử về dòng họ để làm sáng tỏ cội nguồn và đóng góp thêm vào công cuộc xây dựng đất nước theo đúng tinh thần, truyền thống bất khuất của cha ông, tổ tiên trong quá khứ.

NHỮNG TRUYỀN THỐNG TIÊU BIỂU CỦA HỌ LƯƠNG VIỆT NAM

Trải qua hàng ngàn năm hình thành và phát triển, chung sống cùng các dòng tộc khác trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, họ Lương đã xây dựng nên bốn truyền thống tốt đẹp.

Truyền thống yêu nước: Đây là truyền thống chung của toàn thể dân tộc Việt Nam chứ không nói riêng gì dòng họ Lương. Tuy nhiên, trong số hàng trăm tộc họ đã và đang có những đóng góp cho sự nghiệp vệ quốc thì dòng họ Lương vẫn thể hiện được dấu ấn của riêng mình và được ngợi ca, lưu danh trong sử sách.

Có thể nói rằng, các cuộc kháng chiến là một trong những đặc điểm nổi bật xuyên suốt lịch sử Việt Nam, bởi dân tộc ta từ khi hình thành đã phải đối mặt với rất nhiều dã tâm xâm lược của các thế lực ngoại bang. Mặc dù là một dân tộc yêu chuộng hòa bình nhưng nhân dân Việt Nam luôn phải cầm vũ khí để giành lấy sự bình yên cho cuộc sống. Trong quá khứ đã có đến hàng chục lần nhân dân ta vùng lên khởi nghĩa để đánh đuổi quân xâm lược, bảo vệ Tổ quốc và chính trong hoàn cảnh ngặt nghèo ấy, truyền thống yêu nước của nhân dân ta đã được thể hiện một cách mạnh mẽ. Cũng giống như bao họ tộc khác, những người con của họ Lương, hết thảy từ đời này qua đời khác đều mang trong mình tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh bất khuất bởi Tổ quốc được bảo vệ thì dòng họ, con cháu trong nhà mới được yên ấm.

Từ thời Bắc thuộc đã xuất hiện hai tấm gương yêu nước của Nữ tướng Lương Thị Kiều, Lương Thị Tấu, quê ở xã Hồng Việt, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Mặc dù chỉ là phận nữ nhi nhưng khi Tổ quốc nguy nan, đất nước bị giặc phương Bắc đô hộ, giày xéo, hai chị em đã không cam chịu ách áp bức mà nổi dậy đấu tranh. Nghe tin ở Mê Linh có hai nữ tướng quân kiệt xuất là Trưng Trắc và Trưng Nhị cũng phất cờ thay trời hành đạo, quyết tâm tiêu diệt tên Thái thú Tô Định và bè lũ quan lại đô hộ của nhà Hán để đòi lại giang sơn gấm vóc về cho họ Hùng, hai chị em liền kéo quân đến hội ngộ, tình nguyện chiến đấu dưới ngọn cờ của Hai Bà Trưng.

Hơn 100 năm sau, một người anh hùng họ Lương là Lương Long, vốn là người nhân nghĩa đã tập hợp tráng sĩ nổi dậy lật đổ ách đô hộ của nhà Đông Hán. Nghe tin Lương Long phất cờ khởi nghĩa, người dân các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Hợp Phố, Nhật Nam theo ủng hộ rất đông. Nghĩa quân của Lương Long có đến vài vạn người, ông liên kết với các đội nghĩa binh người Tày, Nùng để khống chế các đạo quân của giặc, làm chủ được một vùng đất rộng lớn gồm các quận Hợp Phố (thuộc Trung Quốc ngày nay), Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Trước khí thế ầm ầm như thác đổ của nghĩa quân, tên Thứ sử là Chu Ngung vô cùng hoảng sợ, phải thu quân cố thủ trong các thành trì rồi cho người cấp báo về kinh đô nhà Hán. Đại Việt Sử ký Toàn thư đã mô tả vắn tắt cuộc nổi dậy này như sau: “Mậu Ngọ (Hán Linh Đế Hoành, Quang Hòa năm thứ 1). Mùa hạ, tháng 4, người trong châu và bọn Man Ô Hử làm loạn đã lâu, mục thú là Chu Ngung không ngăn được, người châu là bọn Lương Long nhân đấy dấy binh đánh phá quận huyện, quân đến vài vạn người”.

Đến thời cận đại, nước Việt lại một lần nữa bị ngoại bang đô hộ, kẻ thù lần này là thực dân Pháp. Trong khoảng 50 năm đầu từ khi Pháp tấn công xâm lược Việt Nam, chúng phải đối phó với rất nhiều phong trào đấu tranh, các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta, trong đó, nhiều lần giặc Pháp đã phải vất vả, khốn đốn bởi những phong trào yêu nước do những người họ Lương lãnh đạo. Chắc hẳn chúng ta không thể nào quên cuộc khởi nghĩa Yên Thế với đại diện là người anh hùng Hoàng Hoa Thám. Thế nhưng, tiền đề để cuộc khởi nghĩa phát triển lớn mạnh thì không thể không nhắc tới vị thủ lĩnh đầu tiên của phong trào, anh hùng Lương Văn Nắm hay Đề Nắm. Không chỉ có đấu tranh vũ trang, người họ Lương còn khéo léo sử dụng các hình thức đấu tranh ôn hòa và đã chứng minh được sự hiệu quả không hề thua kém. Điển hình nhất là phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục với hình ảnh người sáng lập và vị Hiệu trưởng đầu tiên của nhà trường là chí sĩ cách mạng Lương Văn Can. Xuất phát từ tình yêu đất nước vô bờ bến, mong muốn cho dân tộc Việt Nam được hùng cường để có thể tự mình đương đầu, giải thoát xiềng xích nô lệ, ông cùng với nhiều người đồng chí hướng đã sáng lập nên ngôi trường Đông Kinh Nghĩa Thục để “làm việc nghĩa” là khai dân trí, chấn dân khí. Cụ Lương Văn Can đã không tiếc tiền của để đầu tư, tài trợ cho những hoạt động của nhà trường. Thế rồi, hổ phụ sinh hổ tử, người con trai của ông - Lương Ngọc Quyến cũng học theo tấm gương của cha, sớm lên đường làm cách mạng và tham gia vào phong trào Đông Du của nhà yêu nước Phan Bội Châu. Sau này, Lương Ngọc Quyến cũng là một trong những người phát động và chỉ huy cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917.

Đến khi Đảng ta ra đời vào năm 1930, người họ Lương tiếp tục góp mặt vào trong hàng ngũ những người cộng sản, đấu tranh cho mục tiêu cách mạng cao cả và trở thành những nhà lãnh đạo tài ba. Đó là cha con anh hùng Lương Văn Thăng - Lương Văn Tụy, Bí thư Xứ ủy Bắc kỳ Lương Khánh Thiện, Lương Văn Tri… Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc, rất nhiều thanh niên ưu tú của họ Lương đã lên đường tòng quân đi đánh giặc và rồi máu xương của các anh đã hòa với đất, với nước, các anh đã trở thành những Anh hùng, Liệt sĩ. Sự hy sinh anh dũng của các anh đã mang lại hòa bình cho đất nước, những người thân và các thành viên trong dòng họ được sống một cuộc sống yên vui, hạnh phúc.

Truyền thống hiếu học: Đây là một truyền thống điển hình và rất đáng tự hào của dòng họ Lương, bởi dòng họ này không chỉ sản sinh ra những trí thức, những người có học vấn đỉnh cao trong xã hội mà còn lan tỏa tinh thần hiếu học sang những dòng họ khác, góp phần tạo nên sự phát triển của nền giáo dục nước nhà. Trong lịch sử, họ Lương có nhiều nhà khoa cử, danh nhân văn hóa yêu nước đóng góp cho phát triển toàn diện của đất nước. Chỉ tính riêng thời Hậu Lê và thời Nguyễn, dòng họ này đã có 23 vị Tiến sĩ, trong đó tên của 11 vị được khắc trên các tấm bia đá nay còn lưu tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Trong đó, người xuất sắc nhất là Trạng nguyên Lương Thế Vinh, một danh nhân kiệt xuất thời Vua Lê Thánh Tông. Dân gian yêu mến gọi ông là “Trạng Lường” bởi ông không chỉ tài giỏi về văn chương mà còn có kiến thức khoa học vô cùng uyên bác, đặc biệt là về Toán học. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Đại Thành toán pháp - bộ sách nói về các phương pháp tính toán, thuế khóa rất có tác dụng trong thực tiễn.

Tiếp đến là Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, một nhà giáo tâm huyết đã đào tạo nên rất nhiều nhân tài cho đất nước vào đương thời. Những người học trò xuất sắc của Lương Đắc Bằng phải kể đến đó là “Trạng Trình” Nguyễn Bỉnh Khiêm, “Trạng Bùng” Phùng Khắc Khoan, họ đều là những công thần của triều đại mình, phục vụ và để lại tiếng thơm muôn đời. Đến sau này, Nguyễn Bỉnh Khiêm lại là thầy dạy học cho con trai của Lương Đắc Bằng nên người, đó là Tiến sĩ Lương Hữu Khánh - công thần của Nhà Lê Trung hưng.

Trong thời kỳ hiện đại đã có rất nhiều nhà giáo, nhà khoa học đầu ngành tham gia công tác dạy học như Nhà Bác học Lương Định Của; Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân, Họa sĩ Lương Xuân Nhị; PGS-TS Lương Ngọc Toản; Giáo sư Lương Duy Trung; Giáo sư Lương Duy Thứ; Nhà giáo Nhân dân, GS-TS Khoa học Lương Xuân Quỳ… Bên cạnh đó là một đội ngũ đông đảo nhà giáo, các nhà hoạt động chính trị, trí thức mang họ Lương đã và đang đứng trên bục giảng để gieo mầm tri thức, nhân cách cho các thế hệ học trò nên người, nên tài, nâng tầm và phát triển nền giáo dục Việt Nam lên một tầm cao mới.

Truyền thống hoạt động văn hóa, mở mang kinh tế: Từ lâu, người họ Lương đã nổi tiếng về sự tài hoa của mình và dòng họ này đã sản sinh ra nhiều nhân vật có những đóng góp to lớn cho nền văn hóa, nghệ thuật nước nhà.

Trạng nguyên Lương Thế Vinh không chỉ là người tài hoa về văn thơ, uyên bác về khoa học mà còn là người có tâm hồn nghệ sĩ và ông có một tình cảm đặc biệt dành cho môn nghệ thuật hát chèo. Lương Thế Vinh rất ham mê xem hát chèo, ông đã xem và nghiên cứu hàng trăm gánh chèo, đúc kết về nội dung và nghệ thuật ca múa nhạc dân gian của chèo, một nghệ thuật sân khấu cổ truyền ở nước ta và rồi sau đó đã biên soạn thành cuốn Hý phường phả lục với bút danh Thụy Hiên. Cuốn sách ghi lại các khoán ước của phường chèo, kịch bản và diễn xuất, cách đánh trống chèo, phương pháp múa và hát…

Cùng thời với Lương Thế Vinh còn có Thám hoa Lương Như Hộc, người được suy tôn là “Ông tổ nghề in” ở nước ta. Lương Như Hộc đã tốn rất nhiều thời gian, công sức để tìm kiếm, mày mò, học hỏi phương pháp in ấn từ tận Trung Quốc xa xôi rồi lại tìm cách truyền bá sâu rộng trong dân chúng. Nhờ vậy, nghề in mới bắt đầu phát triển, nhân dân ta có thêm một ngành nghề kinh tế mới và đặc biệt là nước ta đã thoát khỏi sự lệ thuộc vào việc in ấn từ Trung Quốc vốn đã độc quyền trong một thời gian rất dài. Ngoài ra, Lương Như Hộc còn để lại cho đời nhiều tác phẩm văn học như “Hồng Châu Quốc ngữ thi tập”, bộ sách “Cổ kim thi gia tinh tuyển” gồm 05 quyển với 472 bài thơ của 13 thi sĩ nổi danh đời Trần, Hồ, Hậu Lê.

Không chỉ đóng góp cho sự phát triển văn hóa nghệ thuật của Việt Nam, người họ Lương còn rất giỏi trong việc kinh doanh, phát triển kinh tế. Trên mặt trận cũng không hề dễ dàng và ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của đất nước này, người họ Lương vẫn tỏ rõ bản lĩnh và sự mát tay của mình.

Một đại diện tiêu biểu của dòng họ Lương và của Việt Nam trên thương trường chính là Lương Văn Can. Ông không chỉ là một nhà lãnh đạo cách mạng xuất sắc của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục mà còn được hậu thế suy tôn là người thầy của giới doanh nhân Việt Nam với những tác phẩm viết về việc buôn bán đã được xem là giáo trình kinh doanh với những kiến thức vượt thời đại.

Ngay từ thời Đông Kinh Nghĩa Thục, trong tài liệu giảng dạy của nhà trường có một tài liệu rất quan trọng là Quốc Dân Độc Bản. Đây là cuốn sách do Lương Văn Can và các cộng sự dày công biên soạn ra. Cuốn sách này có đề cập đến các vấn đề tư bản, thông thương, các khái niệm về ngân hàng như trái phiếu, hối phiếu, séc, khái niệm về công ty, về mậu dịch…, và có hẳn một chương cổ vũ “Nước ta nên chấn hưng thực nghiệp” chỉ ra mọi điều kiện thuận lợi để phát triển thương nghiệp ở Việt Nam.

Đến khi bị chính quyền thực dân Pháp kết án đi đày ở Campuchia, Lương Văn Can đã biến nơi rừng thiêng nước độc trở thành vùng đất hứa và khai phá tiềm năng phát triển kinh tế ở đây. Ông đã lập hiệu buôn Đại Thanh và Hưng Thạnh, bí mật hình thành một đường dây buôn bán xuyên biên giới Việt Nam – Campuchia, liên lạc với bà Cử Can ở Hà Nội để vận chuyển các loại hàng hóa mang từ Việt Nam sang. Để qua mặt người Pháp, Lương Văn Can không trực tiếp điều hành mà giao cho con cháu, những người thân tín không phải là người phạm tội trông nom. Nhờ cách làm khôn khéo và kín đáo mà việc buôn bán của ông phát triển rất nhanh, tạo ra vô số của cải và từ đó ông bí mật chuyển về nước để ủng hộ cho cách mạng.

Không chỉ làm giàu cho bản thân, Lương Văn Can còn để lại bí quyết kinh doanh truyền lại cho hậu thế. Một trong những bộ sách nổi tiếng về cách kinh doanh của ông là cuốn Thương học phương châm. Đây được xem là cuốn sách giáo khoa về kinh doanh đầu tiên do người Việt biên soạn. Trong cuốn sách này, ông chỉ ra những nhược điểm của giới thương nhân Việt Nam cần phải tránh, đưa ra những chuẩn mực về đạo đức của nghề kinh doanh mà người buôn bán cần phải có. Trong sách, Lương Văn Can khẳng định nghề buôn là một nghề lương thiện, chân chính, phải xác định được những triết lý này thì kinh doanh mới phát đạt, thành công và ông cũng lên án những kẻ không đức, không tài, gian dối trong kinh doanh. Cuốn sách còn nhấn mạnh tầm quan trọng của thương nghiệp, có vai trò sống còn đối với sự phát triển chung của đất nước và bài học thành công mà các nhà kinh doanh cần phải tận tâm theo đuổi.

Truyền thống đoàn kết gắn bó với họ tộc: Sự phát triển lâu dài, toàn diện, vững chắc của họ Lương gắn bó mật thiết với sự phát triển của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trong suốt mấy ngàn năm lịch sử, họ Lương đã đoàn kết với bách gia trăm họ của người Việt để viết nên những trang sử hào hùng. Để xây dựng được tình đoàn kết toàn dân, người họ Lương trước tiên đã có sự gắn kết bền chặt trong nội tộc, dòng họ.

Các thế hệ con cháu họ Lương luôn nêu cao tinh thần uống nước nhớ nguồn, coi trọng mọi thành viên trong dòng tộc với phương châm: “Nam bang Lương tính giai ngã tử tôn", tức là họ Lương ở nước Nam đều là con cháu một nhà. Thực hiện và phát huy truyền thống của tiên tổ, các chi họ Lương cư trú trên các vùng miền trên khắp đất nước đều có ý thức lập, chép, ghi lại gia phả của dòng tộc mình qua các thời đại, suy tôn Cụ Tổ, nhiều nơi đã xây dựng Từ đường, Đền miếu, quy định ngày giỗ Tổ để con cháu gần xa có điều kiện về tụ hội, ôn lại truyền thống tốt đẹp, động viên nhau cùng tiến bộ.

Năm 2008, một sự kiện lớn của dòng họ Lương được diễn ra. Đó là nhằm đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của các chi dòng họ trên toàn quốc, ngày 23 và ngày 24 tháng 09 năm 2008, Ban Liên lạc họ Lương Hà Nội đã tổ chức Hội thảo với chủ đề “Họ Lương trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam” tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, với sự tham gia của trên 150 đại biểu thuộc 50 chi họ ở khắp các tỉnh thành về tham dự. Thành quả lớn nhất mà hội thảo đạt được là sự nhất trí, thống nhất về việc thành lập Ban Liên lạc họ Lương Việt Nam gồm 60 vị đại biểu, trong đó có 21 Ủy viên Thường trực và Hội đồng Trưởng Lão gồm 09 cụ cao niên là các nhà trí thức, các Giáo sư, Tiến sĩ, Chỉ huy quân sự đang công tác và đã nghỉ hưu làm cố vấn. Việc này đã nhận được sự tán dương nhiệt liệt của các thành viên dòng tộc họ Lương, các dòng họ khác và giới nghiên cứu, chuyên gia đầu ngành. Nó đánh dấu một bước tiến lớn của dòng họ trước xu thế phát triển, hội nhập của đất nước và giúp cho dòng họ ngày càng phát triển bền vững hơn.

Sau khi thành lập, Ban Liên lạc họ Lương Việt Nam đã chủ trương tiến hành một số hoạt động thiết thực như:

- Tiếp tục sưu tầm, tập hợp, khai thác các tư liệu về dòng họ các nơi, xây dựng một cuốn Kỷ yếu Lương tộc như một tài sản tinh thần, trí tuệ của dòng họ Lương Việt Nam.

- Vận động tu tạo, xây dựng Từ đường, đền miếu, các khu di tích lịch sử dòng họ đã được xếp hạng, đề nghị Nhà nước, địa phương tiếp tục xem xét xếp hạng.

- Khuyến khích, vận động việc giao lưu, thăm hỏi, tìm về cội nguồn, giúp nhau trong các hoạt động nhằm phát huy truyền thống tốt đẹp.

- Giáo dục vận động thế hệ con cháu học tập lao động góp phần phát triển dòng họ, phát triển đất nước, tự hào và có trách nhiệm với dòng họ, với dân tộc.

- Thành lập quỹ họ Lương theo tinh thần tự nguyện để có điều kiện thực hiện thuận lợi các chương trình hành động của dòng họ.

- Phát hành các nội san, thông tin về dòng họ, gửi cho các chi họ trong toàn quốc.

Dòng họ Lương luôn nổi bật với những giá trị truyền thống tốt đẹp như lòng trung thành, dũng cảm, kiên định và trí tuệ. Những giá trị này đã được truyền lại qua nhiều thế hệ, trở thành nền tảng vững chắc giúp dòng họ Lương phát triển mạnh mẽ và bền vững. Tinh thần kiên cường và lòng yêu nước của dòng họ Lương không chỉ là niềm tự hào của riêng họ mà còn là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam. Các lớp thế hệ con cháu của Lương tộc luôn tự hào về quá khứ hào hùng của tổ tiên và đang ngày càng phát huy mạnh mẽ những truyền thống quý báu ấy trong công cuộc góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh và văn minh.

Tổng quan về dòng họ Lương Việt Nam

171 Lượt xem
other
Tặng đá Báo cáo
Chia sẻ

Ý kiến (0)